Trung học Chu Văn An Ðời đi học, kỷ niệm đáng nhớ nhất, đáng yêu nhất vẫn là thời học trò các lớp Ðệ Nhất Cấp, Ðệ Nhị Cấp. Tôi nghĩ như vậy. Bởi vì những ngày tập tễnh cắp sách đến trường, khi mà “mẹ tôi âu yếm, nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp…” thì tuổi còn bé nhỏ, non dại, có gì, nhớ gì. Giỏi lắm, áo sơ mi trắng cụt tay bỏ trong quần xà loỏng đen cụt ngủn ôm nhau vật lộn. Nhớ lắm cũng chỉ nhớ những bà cô, những ông thầy dạy mấy đứa nhỏ sao dữ quá, ác quá, rất đáng sợ nhưng cũng rất đáng kính trọng. Lên Trung Học, dẫu gì cũng là người lớn trong lòng cũng đã biết tơ tơ tưởng tưởng cho thầy Thư dạy Cổ Văn năm Ðệ Ngũ, thầy Mão dạy Toán năm Ðệ Tứ phải nhăn mặt mà la những cô, những cậu học sinh còn non choẹt sao cứ “mơ mơ màng màng, học không lo học, lo thơ với thẩn, lo mèo với mỡ”. Còn ở Ðại Học, giảng đường rộng thênh thang, giảng sư muốn nói gì nói và sinh viên, ai muốn đứng đâu, ngồi đâu, làm gì tùy ý một cách tự do, tự tại, lạt lẽo. Tôi may mắn thi đậu vào Trường Trung Học Công Lập Phan Bội Châu, Phan Thiết và được chuyển vào Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An, Sài Gòn về sau. Ở Tỉnh mà vào được Trường Trung Học Công Lập duy nhất thì khó biết chừng nào và hãnh diện hết sức. Hãnh diện cho mình mà cũng hãnh diện cho cha mẹ nữa. Ở Việt Nam, ai không nghe Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An là một trường thầy giỏi, trò giỏi. Tôi rất tự hào, tự cao là học sinh của Trường Chu Văn An có thầy An, thầy Huỳnh dạy Triết, thầy Lương dạy Anh Văn, thầy Lâm dạy Toán, Lý Hóa…và nhất là có thầy Tự là Giám Thị và ông Hiệu Trưởng là thầy Dương Minh Kính. Về Trường Trung Học Công Lập Phan Bội Châu Phan Thiết quê tôi, tôi sẽ viết vào một dịp khác. Bây giờ, bài nầy tôi viết về Ngôi Trường Chu Văn An một thời vào học. Trường nằm cuối đường Minh Mạng, đụng Triệu Ðà, bên hông Ðại Học Xá Minh Mạng. Trường Chu Văn An là một trong những trường Trung Học đầu tiên của nước Việt Nam, được thành lập ngày 9 tháng 12 năm 1908 dưới thời Toàn Quyền Ðông Dương Antony Klobukowski với tên Tây là Lycée du Protectorat. Trường Lycée du Protectorat xây dựng trên đất Làng Bưởi của Thụy Chương bên Hồ Tây, nên người ta cũng thường gọi là Trường Bưởi. Thụy Chương sau đổi lại là Thụy Khuê vì kỵ húy Chương vua Thiệu Trị. Ðến ngày 12 tháng 6 năm 1945, Khâm Sứ Phan Kế Toại đổi tên Trường Lycée du Protectorat thành Trường Quốc Lập Trung Học Hiệu Chu Văn An. Từ ngày thành lập cho đến 30 tháng 4 năm 1975, trường đã bao phen chia đàn, rẽ nghé. Khi thì đi vòng vòng ở Hà Nội. Khi thì chạy xuống Ninh Bình, chạy vào Thanh Hóa. Và sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, đa phần thầy và trò lại cuốn gói vào Nam ăn nhờ ở tạm nơi Trường Trung Học Pétrus Ký vài năm. Ðến năm 1961 mới có trường Trung Học Công Lập Chu Văn An mà học. Trường nằm ngay ngã Tư Minh Mạng, Triệu Ðà ,Ngô Quyền, Hồng Bàng và trước mặt là Nhà Thờ và Công Viên Văn Lang. Sau cái ngày gọi là Giải Phóng, trường bị Việt Cộng chiếm đoạt và đặt nhiều tên nghe dài lê thê điếc cái lỗ tai mà nhìn âm âm u u ngứa cả hai con mắt: Trường Huấn Nghệ Phổ Thông Lao Ðộng, Trung Tâm Giáo Dục Thường Xuyên. Dĩ nhiên, tôi chỉ nói về trường cũ của mình hồi đó là Trường Chu Văn An, không dính dáng gì đến ba cái Trường Huấn Nghệ hay Trung Tâm Giáo Dục hoặc Trường Trung Học Phổ Thông Chu Văn An, Hà Nội ngoài Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa gì ráo. Vùng Sài Gòn-Gia Ðịnh hồi đó có những trường công lớn, nổi tiếng như Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Pétrus Ký, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Hồ Ngọc Cẩn, Võ Trường Toản…Và tôi thì rất hãnh diện đã là học sinh Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An. Về quê ở Phan Thiết, tôi thưòng cao ngạo, tự hào, huênh hoang với bè bạn mà khoe mình là “Dân Chu Văn An”, là “Dân Trường Bưởi” một cách say sưa, buồn cười, lố bịch. Ở ngoải, nghe đến tên Trường Chu Văn An, người ta là những học sinh ai cũng nể, cũng kiêng, cũng dè cho nên, mình cứ lên nước, mình cứ “làm le”. Nói cho cùng, có buồn cười, có lố bịch, có lên nước, có làm le đi nữa cũng chẳng sao. Bởi vì, có ai cắp sách đến trường ở Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ mà lại không biết đến tên tuổi của ngôi trường nổi danh, nổi tiếng nầy khắp Nước Việt Nam Cộng Hòa, dễ gì mà vào. Có khác gì, ông bạn Nguyễn Sĩ Chiêu được vào học Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn về Phan Thiết của tôi còn “nổ hơn tạc đạn”. Tôi người Phan Thiết có tán dóc cách mấy cũng không bằng một góc ông Chiêu Bắc Kỳ nầy. Ổng mà “đía” vô, “đía” ra đố trời mà chịu nổi. Cách đây hơn một tháng, tôi có nói với ông bạn Ðại Úy Nguyễn Chí Viễn, cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa II Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia rằng: “ Các ông đã là Chu Văn An mà thêm gốc Bắc Kỳ nữa thì đố trời mà cãi lại”. Thật vậy, tôi nhớ không chính xác là tháng mấy của năm 1966, các ông bạn của tôi Trường Chu Văn An thi “Tài Bùng Biện” ở phía sau căn nhà lầu đằng trước bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Các ổng toàn người Bắc, không một móng Nam, Trung gì ráo. Các ổng ăn to, nói lớn, rành mạch, dõng dạc, đường bệ…hùng biện một cách rất “hùng biện” thua ai đâu. Năm ngoái, tôi về Việt Nam sau gần hai chục năm xa quê, nói thằng cháu “chở chú tới Trường Chu Văn An” để nhìn ngôi trường xưa. Qua Ngã Sáu Chợ Lớn ngày xưa bây giờ đổi tên đổi họ hết trơn. Ngã Sáu Chợ Lớn bây giờ còn Nguyễn Tri Phương như cũ, Minh Mạng là Ngô Gia Tự và Ðại Tá Trần Hoàng Quân là Nguyễn Chí Thanh. Ngang qua Ðại Học Xá Minh Mạng hồi đó, bây giờ là Ký Túc Xá Ðại Học Y Dược mà năm 1976 có tên là Ký Túc Xá 230 Ngô Gia Tự. Với những anh em sinh viên thời chúng tôi, ai lại không nghe, không tới Ðại Học Xá Minh Mạng một lần. Tôi thì có chỗ ở nơi dạy kèm mấy đứa nhỏ, hồi đó gọi là “précepteur”, sau lưng Ciné Văn Hoa dưới Tân Ðịnh, không thì cũng xin vào trỏng rồi. Gần như Thứ Bảy, Chủ Nhật nào, tôi cũng chun đầu vào nơi gió cát nầy, vui với anh em “bạch diện thư sinh” nghèo quá đổi là nghèo! Trường Chu Văn An bây giờ không còn tên và sao hiu hắt, cô quanh quá sức. Cửa đóng then cài im ĩm, không một bóng người. Cửa hông bước vào trường ngày trước nằm phía bên phải với Câu Lạc Bộ, nay bị bít kín và trổ cửa khác nằm phía bên trái cổng lớn của trường. Bức tường cao phía trước có kéo những vòng kẽm gai “concertina”, nhìn nhà trường như nhà tù. Ai mà không xúc động, không buồn được tôi khen. Trường tôi vĩ đại, sống động biết mấy ngày nào, sao nay đìu hiu, cô quạnh, không hồn đến như thế! Mà sao lạ nhỉ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không xây được một ngôi trường học mới mẻ nào hết trơn, dù thời gian đã dài 36, 37 năm “giải phóng”rồi, ngoài nhà hàng, khách sạn, tụ điểm ăn chơi…Thẳng tới phía trước, bên kia đường không còn cô gái Tàu phụ với ông già bán nước rau má hồi nào. Cô ta có khi đã về Trung Quốc theo “nạn kiều” rồi chăng? Nhớ năm 1965-1966, xe nưóc rau má của cô ta thường được bu quanh bởi mấy anh “…thứ ba học trò”, nhất là học trò Chu Văn An. Họ tới để uống nước rau má cho “mát” bụng cũng có mà để nhìn cổ cho “mát” hai con mắt cũng có. Tôi chẳng biết cô ta tên là gì, thường anh em cứ gọi là A Muối và chọc cổ mấy tiếng Tàu học lóm: “nị hữu len”. A Muối cười mủm mỉm, ai cũng muốn hun cái má đỏ hây hây của cổ cho đả. Nói đến A Muối lại nhớ đến anh chàng Bình Mập mê gái mà thấy gái thì run chết cha. Khoái A Muối, cứ bao tôi, Sử uống nước rau má hoài khỏi trả tiền, để cho nó lại gần mà dạn miệng dạn mồm chỉ để nói: “A Muối, nị hữu len”. Nó cũng là thằng khoái làm thơ thua xa thơ con cóc người ta mà cứ thơ với thẩn hoài. Thằng Sử ngán quá, gán cho nó một cái tên kể ra cũng xứng, đó là Ngụy Thi Sĩ và nhại mấy câu thở để đời của nó: “Hôm qua tao đi học. Quen cô gái trên đường. Về nhà nhớ nhớ thương. Hôm sau tao đi học. Không gặp cô gái hôm qua. Chắc cổ ở nhà? Ở nhà với mẹ hay đi với bồ? Tao khổ”. Quây sau lưng là Nhà Thờ Văn Lang đứng uy nghiêm, lặng lẽ, cô độc như thuở nào trời đất ngày xưa tôi đi học, có khác là bây giờ sơn phết màu đỏ hồng sáng chói, không như hồi đó trắng trắng bạc thếch. Nhà thờ khởi công xây dựng từ năm 1922, đến năm 1928 mới xong. Gọi là Nhà Thờ Văn Lang chắc nhà thờ nằm trong Công Viên Văn Lang? Nhà thờ Văn Lang vì nằm kế Ngã Sáu Chợ Lớn nên người ta cũng gọi là Nhà Thờ Ngã Sáu. Nhà Thờ Ngã Sáu còn có tên khác nữa là Nhà Thờ Jeanne d’Arc. Toàn khu công viên nầy, hồi đó tôi được một chú Chệt thuờng mặc bộ đồ tàu vải lụa đen đi tới đi lui trong công viên cho biết: “đất nầy thời trước là nghĩa địa của Người Huê Kiều, Người Pháp gọi là Plaine des Tombeaux”. Công viên, nhà thờ ở đây, ai học Chu Văn An dù thời xưa hay thời nay, tôi dám cả quyết đều nghĩ như nhau là, sao tiếng ve sầu đánh tiếng buồn quá sức, não nùng quá sức và ngôi nhà thờ quanh năm cô quạnh, thê lương, lạnh lẽo cũng quá sức. Tiếng chuông réo rộn ràng giờ giải lao. Người thì vào Câu Lạc Bộ mới, có bà chủ lúc nào cũng la lối và hai cô con gái nhà ai coi cũng xinh xinh lắm chứ. Tôi có vào đây gần như lúc nào cũng “cho ly đá chanh” và lúc nào hai cô cũng nhìn tôi, cười chím chím rồi nhỏ nhẹ “biết rồi, khổ quá, nói mãi” anh ơi. Người thì tụm lại với nhau trong sân trường, nói chuyện đời lính tráng sắp đến nơi. Người thì ra cổng, quẹo phải tới với cô gái Tàu bán nước rau má. Người thì ra cổng đi thẳng qua bên kia đường, dạo vòng vòng trong Công Viên Văn Lang, chắc tìm “yến sĩ phi lý thuần”, không phải “lạy Chúa, con là người ngoại đạo”? Trong công viên nầy, vào một chiều, chắc là Mùa Xuân năm 1966, có khoảng một chục nữ sinh áo dài trắng, quần dài trắng tự giới thiệu là Học Sinh Trung Học Thủ Thừa, Long An “lên đây bán Ðặc San Trung Học Thủ Thừa cho các anh Chu Văn An”. Bán ở đâu không bán lại bán nhằm chỗ anh hùng tứ chiếng thì “các cô từ chết tới bị thương” mà thôi. Thân gái dặm trường từ một quận nhà quê xa lắc xa lơ mà dám vào hang cọp chốn thị thành Thủ Ðô. Chốn thị thành Thủ Ðô đó lại là tụ điểm của những “Anh Hùng Lương Sơn Bạc” Chu Văn An thì các cô khác chi “hoa lạc giữa rừng gươm”. Các cô chỉ lạng, lách, né, tránh cho khỏi đụng qua đụng lại với các anh mua thì không mua mà nhiệt tình muốn xáp lá cà cũng đủ “mệt đứt hơi” rồi, còn đâu mời mọc bán hàng. Túng thế, các cô Nữ Sinh Trung Học Thủ Thừa “cám ơn các anh” chạy lấy thân muốn chết mà thề không bao giờ bén mảng. Chạy hốt hoảng làm sao, một chiếc guốc của cô nào đó bị tuột ra khỏi chưn mà không dám quây trở lại mang đi. Một ngày cuối năm 1965, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương lúc bấy giờ có đến thăm trường. Anh em trong trường kháu với nhau về ông Thủ Tướng trẻ tuổi tài cao xuất thân từ Trường Chu Văn An cũng là Trường Bưởi của mình đầy khâm phục và hãnh diện. Hồi đó tuổi trẻ chúng tôi, hình ảnh một ông Tướng trẻ, đẹp, oai nghiêm, phong trần, phong lưu như Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là một mẫu người lý tưởng, là một thần tượng. Sân trường chật trò, chật thầy rộn ràng tiếng cười nói, hoan hô, vỗ tay rần rần một khoảng không gian trời đất. Một đề nghị “xin dời Trường Chu Văn An đi một nơi khác vì ở đây gần Bệnh Viện Bài Lao” được Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương “hoàn toàn đồng ý và sẽ dời trường xuống khu Phú Thọ”. “Dời trường xuống khu Phú Thọ” không thấy mà thấy Trường Trung Học Công Lập Chu Văn An cứ ở lỳ đó cho đến ngày Việt Cộng vào cướp đoạt. Một lời hứa “lèo” của ông “Thủ Tướng Bốc Ðồng” làm mất mặt, thất vọng đàn em đón, đưa ổng hết sức nồng nhiệt buồn biết chừng nào! Tôi không nhớ chắc. nhưng có lẻ là cuối năm 1966, tin đồn một thầy nghe nói là dạy dưới Trường Trung Học Bến Tranh, Ðịnh Tường lên làm Hiệu Trưởng Trường Chu Văn An. Một thầy dưới một Quận của một Tỉnh xa xôi không biết giỏi đến cở nào mà leo lên chức Hiệu Trưởng của một trường nổi tiếng khắp nước là một chuyện lạ. “Chắc có áp phe, nếu không thì con ông cháu cha”, thầy trò to nhỏ với nhau như vậy. Không lâu, Thầy Dương Minh Kính ở dưới lên đây làm Hiệu Trưởng thiệt. Thầy người Bắc, không được cao lắm và cũng chẳng đẹp trai chút nào và chắc chẳng ai những ngày đầu “tâm phục, ý phục” bao giờ. Rồi thầy có cải cách hay không cải cách, có làm tốt hay làm dở tôi cũng không quan tâm chuyện mấy người lớn, hơn nữa mấy tháng sau là tôi đã ra trường rồi. Vài năm sau, nghe thầy là Dân Biểu Quốc Hội. Vậy thì, thầy giỏi thiệt. Niên khóa 1966-1967 chúng tôi tham dự Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Học Ðường đầu tiên do thầy giáo Lê Ðình Ðiểu cũng là cựu học sinh Trường Chu Văn An khởi động. Cứ cuối tuần, một nhóm chúng tôi tụ tập trong Sở Thú, Thị Nghè tập hát, kể chuyện, đối thoại, cắm trại…Nhưng không được mấy lần thì tôi nghỉ luôn và chương trình anh em có còn tiếp tục nữa hay ngưng thì tôi không biết. Có điều, bài hát buổi sinh hoạt đầu tiên là bài hát mới sáng tác của Nhạc Sĩ Phạm Duy, bài Việt Nam, Việt Nam. “Việt Nam, Việt nam nghe từ vào đời. Việt Nam hai câu nói bên vành môi. Việt Nam nước tôi…” nghe sao hay quá, mau thuộc lòng quá và nhớ lâu đến bây giờ. Cũng trong năm nay, nếu trí nhớ tôi còn tốt thì anh bạn Tín người Nam, không phải Tín người Bình Ðịnh có làm Ðặc San Nhóm Lửa cho Lớp Ðệ Nhất C. Nói là đặc san, thật ra hình bìa là tờ giấy trắng có in ngọn lửa đỏ là hiệu đoàn của nhà trường. Những bài viết bên trong chắc khoảng 60 trang giấy đánh máy, quay ronéo, mực đen. Tất cả đóng thành tập. Tôi có một bài dài hơn một trang nói về những kẻ giàu thì hoang phí mà những kẻ nghèo một miếng ăn tìm rất khó. Anh Tín nói: “ông bạn là một Nhà Xã Hội Học”. Nói về tên anh em năm học đó, chắc tôi quên nhiều hơn nhớ: Ý, Bách, Lữ, Tín Nam, Tín Bình Ðịnh, Phát, Thắng, Sử, Nghĩa, Chính…Bách thì tôi gặp lại một lần trong Trường Bộ Binh Thủ Ðức, chắc trong trường hợp giáo chức bị động viên. Ngồi kế bên tôi, Chính là anh chàng người Bắc, cao to, giỏi đàn địch, cứ hát và khen hay hoài bài Ai Nói Với Em của Nhạc Sĩ Minh Kỳ mới ra: “ai nói với em, nếu anh là lính, không biết nói yêu mỗi khi gần em” và khoái biết chừng nào, ảnh đập tay, giựt chưn đoạn “khi lính đã yêu, rừng tàn núi lở. Tình còn vững bền muôn thuở. Bao la như lòng đại đương”. Phát sau nầy nghe nói vào Khóa I Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Ðà Lạt không biết phiêu bạt nơi nào. Phát một lần với tôi lên Ðà Lạt dự Trại Hoa Anh Ðào do Tướng Kỳ tổ chức? Chúng tôi uống Cà Phê Tùng, đi ngựa bờ Hồ Xuân Hương, dự lễ Nhà Thờ Con Gà, đi vòng vòng Khu Chợ Hòa Bình. Lữ và một, hai anh em nữa từ Trường Lasan Tabert qua, có giỏi Tiếng Pháp thiệt nhưng không giỏi các môn khác còn lại, có vẻ ít thân thiện với bạn bè chung quanh. Có phải Tây và Ta không hợp nhau hay mấy ông học Trường Tây là con nhà giàu đâu khoái giao du với bàng dân thiên hạ không “môn đăng hộ đối” với mình? Thắng thường khoe mình trong Ban Nhạc Mây Trắng. Tôi không rành ca, nhạc nên không biết Ban Nhạc Mây Trắng, Mây Hồng gì của Thắng. Thường, chiều Thứ Sáu sau khi Thầy Tự, Giám Thị dãy lầu I đi một vòng kiểm điểm là Thắng dzọt qua cửa sổ đi liền, đi tuốt. Sau thi Tú Tài II, không biết Thắng đậu hay rớt và đi đâu. Sử, anh chàng sún răng, con nhà giàu ở Huỳnh Tịnh Của miệt Tân Ðịnh, chơi tennis ở Tao Ðàn, học cũng học mà chơi cũng chơi. Ðậu Tú Tài II một lần với tôi. Nghe nói, Sử Sún vào Quốc Gia Hành Chánh năm 1967, nhưng không gặp một lần. Ý, nhà trong Cư Xá Ðô Thành, sát Trường Tiểu Học Bàn Cờ, thích cà phê đen với thuốc hút, không mần mò học với hành nhiều. Rớt Tú Tài II, Ý vào Thủ Ðức, không biết tới bể dĩa đã lên tới lon gì hay đã “vị quốc vong thân”? Hồi đi học chung, tôi thỉnh thoảng tới nhà Ý nhiều lần nhưng mấy lần sau không biết tại làm sao, tôi không tìm ra được nhà của Ý, đành xa cách nhau biền biệt từ đó. Chúng tôi là tôi, Thắng, Sử, Ý bốn thằng thường “coupe cours” bằng con đường “chun lỗ chó” vách tường trên đường Triệu Ðà hay hàng rào lưa thưa cuối trường. Thường bốn đứa ra Quán Chú Chệt bên kia Ðường Trần Hoàng Quân, ngay ngã tư hai Ðường Trần Hoàng Quân và Ðường Triệu Ðà. Trốn học vì “học không dzô” như thằng Ý nói. Những giờ Triết của Thầy Trần Ðức An, Thầy Huỳnh Già thì không đứa nào đành bỏ học. Thầy Lương dạy Anh Văn cả bốn đứa cũng ráng ngồi nghe, ngồi học đường hoàng. Giờ Lý Hóa và Toán của Thầy Lâm thì y như rằng, rủ nhau “ra uống cà phê tụi bay”, thằng Sử dụ. Mấy giờ Pháp Văn, Sử Ðịa…thì “khi vui nó đậu, khi buồn nó bay” chưa biết chừng. Ra Quán Chú Chệt để làm gì, thì cũng để cho khuây khỏa mà hút thuốc Bastos Ðỏ, Bastos Xanh với cà phê đen, cà phê đá chớ gì. Tôi, bị tụi nó chữi hoài “nghèo mà sang”, cứ hút Capstan không. Thật ra, mình không “bụi đời” mà chơi nổi mấy loại thuốc đó. Nó vừa khô khốc lại vừa đắng nghét, “ngon chỗ nào”. Cà phê tiệm mấy anh Ba Tàu ở Chợ Lớn thì giống nhau y hệt, nấu trong một túi vải. Người Miền Nam bình dân ta đặt cho nó một cái tên hết sức biểu tượng là “cà phê dợt”, “cà phê dớ”. “Cà phê dợt”, “cà phê dớ” vì nấu trong một cái túi vải thụng thịnh như một cái vợt, như một cái vớ. Cũng cà phê đó, bỏ sửa vào là “cà phê sửa”, bỏ đá vào là “cà phê đá”, không bỏ gì hết là “cà phê đen”. Thuở đó, các tiệm nước bình dân Vùng Chợ Lớn đâu có cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc” của mấy anh Bộ Ðội Nhân Dân ngốc nghếch ngoài Bắc đem vào. Ngày đó, đường sá còn rộng thênh thang, tôi đi học bằng xe đạp. Chiếc xe đạp “cà tàng”, cà rịch cà tang tôi đạp từ con hẻm Trần Quang Khải, bên hông Ciné Văn Hoa dưới Tân Ðịnh xuống tới Chợ Lớn, xa cũng xa thiệt. Ði học, tôi thường đi qua khúc Ðinh Tiên Hoàng rồi thẳng trước mặt Hiền Vương, qua Công Trường Dân Chủ đếnTrần Quốc Toản quẹo trái lên Pétrus Ký mà vào Ngã Bảy rồi quẹo phải trên Ðường Minh Mạng để tới trường. Nghĩ đường sá xa xôi, mình cũng bắt chước bạn bè làm Thẻ Công Quản Xe Buýt Saigon đi cho bớt mệt và tiết kiệm được đồng nào hay đồng nấy. Nhưng có thẻ rồi, bây giờ ngồi nghĩ lại, không biết mình đã đi một lần nào chưa nhỉ. Xe Bus, đi còn lâu hơn xe đạp. Nó chạy rề rề, ngừng nhiểu trạm, giờ giấc không chắc ăn. Nghĩ vậy, thôi “ta về ta tắm ao ta” chiếc xe đạp cũ bảo đảm hơn. Thà ta đi một vòng có dài mà nghêu ngao được lời ca, tiếng hát thênh thang, thong dong…Huống gì hồi đó đi học bằng xe đạp, tôi lại có một mối tình nho nhỏ với một cô nữ sinh lớp Ðệ Tam của Trường Gia Long. Chúng tôi cùng trong con Hẽm Trần Quang Khải. Cổ, nhà sát Trường Trung Học Tư Thục Văn Hiến. Tôi, nhà ở sâu trong xóm, bên bờ Kinh Cầu Bông. Khi nào gặp nhau, chúng tôi thường kè kè song đôi, chuyện vu vơ, buâng quơ ra Trần Quang Khải, quẹo phải Ðinh Tiên Hoàng, đến Phan Thanh Giản quẹo phải, chạy tới Ðường Bà Huyện Thanh Quan thì cô bé lúc nào cũng như lúc nấy, vừa cười vừa nói “ráng đạp nghen anh” mà vào trường. Tôi thì tiếp tục hết đường nầy cho tới Ngã 7 rồi vào Minh Mạng, đến Ngã 6 Chợ Lớn, lại tiếp Ðường Minh Mạng để tới trường. Thỉnh thoảng chúng tôi nói với nhau “hôm nay có phim hay” mà rủ vô Ciné Văn Hoa, ngồi kế bên nhau coi mà chưa từng đụng tay, đụng chưn với nhau bao giờ. Rồi tôi đi xa như đời lính người trai thời chiến và cô bạn nho nhỏ Gia Long của tôi đi lấy chồng như đời một người con gái thường tình nhi nữ. Người mà tôi cả gan nắm tay và dám hun lên má đầu tiên đời người con trai nhát gái của tôi chính là vợ tôi, không ai khác. Ðâu cũng là một cái duyên, người ta gọi là “duyên tiền định” phải không? Tôi có học Chu Văn An, tôi mới đi dạy kèm mấy đứa nhỏ dưới Tân Ðịnh. Tôi có đi dạy kèm mấy đứa nhỏ dưới Tân Ðịnh, tôi mới gặp cô nữ sinh Ðệ Tứ của Trường Văn Hiến lấy làm vợ. Trường Chu Văn An từ đó còn thêm một ý nghĩa hết sức thi vị cho đời học sinh của tôi khi nhắc tới. Ði ngang trưòng cũ, trường đã đổi tên, lòng tôi buồn với vợi. Ngày đó niên khóa 1965-1966, năm học cuối cùng của tôi, Trường Trung Học Chu Văn An rộn ràng tiếng nói cười xôn xao, lao xao vút trời cao bao la. Bây giờ cửa sắt lớn, cửa sắt nhỏ đóng kín mít; tường gạch cao rào kẽm gai; chung Niên khóa 1965-1966 là năm học cuối cùng của tôi ở Trường Chu Văn An, lúc nào cũng rộn ràng biết mấy âm thanh vang vang tiếng cười nói xôn xao cả một khu phố, bay bổng lên khoảng trời cao bao la, mênh mông. Bây giờ nhìn lại trường không còn tên như Sài Gòn đã mất tên Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Ðông! Ai mà không cảm thấy quanh quẩn ngột ngạt bầu không khí u buồn hun hút, mịt mùng. Lối vào, cổng sắt lớn, cổng sắt nhỏ đóng kín. Mặt ngoài Câu Lạc Bộ của nhà trường hướng ra đường Minh Mạng, bây giờ là Ngô Gia Tự không có cửa nào như ngày xưa mở toang ra cho học trò cứ ở ngoài mà vẫn mua được ly trà đá, ly cà phê, tập giấy, cây viết…“Trường Chu Văn An của tôi hồi đó, bây giờ nhà tù!?”, tôi buồn buồn tự hỏi trong lòng. Người ta vào đây gọi là “giải phóng”, nhưng giải phóng cái gì nhỉ!? Ðã 37 năm dài như đã nói ở trên, không thèm xây thêm một trường học nào cho ra một trường học nào ngay tại cái đất Sài gòn nầy, nói chi xa xôi ở đâu. Họa chăng, họ làm cho mù mờ đi, nhạt nhòa đi, mất mát đi dấu vết trường xưa nổi tiếng của người ta như Trường Trung Học Chu Văn An của tôi thì có. Họ lo cướp đất của đám dân nghèo thấp cổ bé miệng mà cất thêm nhà tù nhốt ai dám “chê” Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hay cả gan “chỉ trích” các tên cai trị đầu sỏ độc tài, độc ác còn không đủ thì giờ, thì giờ đâu lo ba cái chuyện trường với lớp, học với hành cho mệt? Bất hạnh thay! Trường nào ngày xưa tôi không biết, nhưng với tôi, ai đã học Chu Văn An trước khi Việt Cộng vào, bây giờ về thăm trường cũ mà không bàng hoàng, không xót xa, vẫn tỉnh bơ như không có gì mảy may trong lòng thì tôi chịu thua mà phải khen lên rằng: “ông thiệt là người sắt đá, vô cùng sắt đá”./. NGUYỄN THỪA BÌNH Các bạn niên khoá 1964-1971 mến, thấy các anh lớn kêu gọi gửi bài cho Kỷ Yếu Đặc San Hội Ngộ Toàn Cầu kỳ 2017 nên tôi ghi lại những kỷ niệm thời học sinh khóa 1971 để góp mặt với các đồng môn CVA. Chết Vì Ăn gặp nhau nhậu nhẹt tán dóc là vui rồi, nhưng phải có gì đọc cho vui chứ. Tôi xin viết theo lời hồi ký kể chuyện lang bang bạ đầu viết đó cho dễ dàng. Một dịp ôn lại kỷ niệm cũ với chính bản thân mình và đám bạn bè dăm đứa trên cuộc sống về chiều này. Thằng nào thành công thì mừng cho nó, thằng nào hẩm hiu thì thương cho nó , còn lại thì chả miêu nào hơn mèo nào. Mỗi thằng có một lối sống riêng, lối suy nghĩ riêng , cứ “bỏ qua đi tám". Nay tụi mình chỉ "ngồi buồn gãi háng d.. lăn tăn"(thơ Nguyễn Văn Hương), có bạn cũ để đấu hót cho vui, gọi nhau mày tao, lại được xổ tiếng Đan Mạch (DM) hay tiếng Đức cho đã miệng. Nên mới có cái vụ hội ngộ "group therapy" này. Phải nói thế hệ CVA'71 chúng mình nằm trong một thời điểm rất ư là đặc biệt. Từ Đệ Thất (lớp 6) năm 1964 đến lúc ra trường 1971 là 7 năm trời lồng trong khung cảnh nhiễu nhương của đất nước Việt Nam. Một giai đoạn với nhiều biến động, đề cuối cùng là sự sụp đổ từ chính trị, xã hội đến lý tưởng và hoài bão của lớp trẻ chúng mình. Sau cuộc cách mạng 1 tháng 11 năm 1963, tụi mình lúc đó đang học lớp Nhất tiểu học( lớp 5), sau khi thi cái thi đầu tiên trong đời là kỳ thi Tiểu Học. Tôi lúc đó là học trò thò lò mũi xanh" chả biết gl cả, nghe nói các trường công có kỳ thi tuyển vào đệ Thất(lớp 6), nên "cũng lều cũng chõng cũng đi thi", thấy trường Chu Văn An gần nhà nên nộp đơn thôi, chứ đâu biết Chu Văn An vốn là trường Bưởi của dân Bắc Kỳ di cư rau muống, và chẳng biết ngoài Chu Văn An ra con có Petrus Ký của Nam Kỳ quốc, Võ Trường Toản gần sát Trưng Vương, Nguyễn Trãi, Trần Lục, Mạc Đĩnh Chi đâu đó xa xa.Chỉ biết thi vô được trường công khỏi phải trả tiền học phí là ông già bà già ở tỉnh lẻ Ban Mê Thuột chịu ngay. Buổi thi vào Đệ Thất cũng rộn ràng, nhớ bài thi toán động tử tìm vận tốc xe đò Saigon-Biện Hòa. Nhờ số hên, được tuyển chọn trong số 300 học sinh của niên khoá 1964-1965. Ngày nhập học đầu tiên còn thấy bàn ghế ngổn ngang sau những cuộc biểu tình chống ông Diệm của các bậc đàn anh lớp trên. Nghe nói mật vụ ông Nhu vào lùng bắt học sinh trong sân trường. Sau cách mạng 1 thang 11, tình hình chính trị thay đổi nhiều. Lúc đó chả biết chọn sinh ngữ gì để được xếp lớp, nên chọn đại sinh ngữ Pháp Văn, vì lúc đó lại có ý ghét Mỹ , nghĩ là có bàn tay lông lá của CIA nhúng tay vào việc xúi cho các tướng đảo chánh giết "Cụ Ngô ", vì mình vốn dân di cư công giáo năm 1954 (Nhất Chúa, nhì cha thứ ba là Ngô Tổng Thống). Hồi nhỏ mỗi lần vào coi xi nê rạp Thanh Vân đường Lê Văn Duyệt là phải chào cờ rồi nghe bài hát Suy Tôn "Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm ...". Sau ngày cách mạng, cùng bạn bè trong xóm nghêu ngao bài ca được sửa lời cho vui "Bà Ngô Đình Nhu bóp c.. Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống kêu đau. ...". Đúng là con nít nghịch ngợm "Nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò" mà lị. Với 300 tên học sinh được chọn, nhà trường chia làm 5 lớp: 2 lớp Pháp Văn P1, P2 cùng 3 lớp Anh Văn là Al , A2 va A3. Lớp đệ Thất P1 ở ngay trên lầu hai, dãy đầu tiên, trên phòng giáo sư, bên cạnh phòng Giám Thi của cụ Đặng Trọng Dự . Lớp P1 có 60 mạng, lúc đầu tiên xếp lớp, tất cả vào ngồi bàn theo thứ tư ABC, dãy đầu tiên từ cửa vào là Trịnh Khánh An, Phạm Văn Bùng, Đặng Trọng Cảnh, Hoàng Văn Cường, Nguyễn Thanh Dũng rồi đến Đào Đình Đắc, Vương Đình Điềm, Trần Hồng Điệp, Mai Đăng Quang Đức….Năm đầu tiên này chẳng còn nhớ gì mấy, tất cả đều "lính mới tò te" nên chưa có gì để nói cả. Lúc đó bị đặt ngồi đâu thì ngồi đó chứ chưa có chia xóm này xóm nọ. Nhưng các năm sau , bắt đầu biết tìm "bàn hiền cùng chung chí lớn gặp nhau" ngồi chung với nhau để nghịch phá hay để học tùy theo sở thích. Sau này chia ra các xóm như "xóm nhà lá " gồm những tay chơi cầu ba cẳng ở dãy bìa gần ngoài sát cửa sổ hành lang để nhảy rào “cúp cua”cho dễ hoặc để phá, thầy không thấy . Đến "xóm nhà tôn" ở giữa gồm những tay tàng tàng "vừa học vừa chơi", còn "xóm nhà ngói" bên trong là những "tay gạo" . Cả ba xóm rất là vui vẻ suốt cả 7 năm học. Những năm sau, vấn đề chính trị sôi động, anh em trong lớp cũng bị xúi dục đi biểu tình đã đảo trường Tây, vì lúc đó Pháp o bế miền Bắc đưa ra chiều bài trung lập hóa miền Nam nên các lớp nhỏ bị các đàn anh lớp lớn xúi anh em ghét Tây, nên rủ nhau đạp xe đạp (lúc đó chưa có Honda) chạy sang biểu tình đã đảo trường Tây nhưng chính là rủ nhau đi ngắm các em Marie Curie mặc jupe lòi đùi nhiều hơn các em trường Việt mặc áo dài chả thấy gì cả, hay chạy sang la lối đả đảo mấy thằng Tây con” tại trường Jan Jaques Rousseau. Lúc đó ham vui lại được nghỉ học có phép hơn là làm chính chị chính em. Tuy nhiên tụi này cũng có lúc làm việc nghĩa như đi xin gạo, lợp nhà cho nạn nhân chiến cuộc Tết Mậu Thân, giúp đỡ đồng bào Việt gốc Miên chạy nạn cáp dườn” (chặt đầu) của dân Kho-mer hoặc quyên góp cứu lụt miền Trung. Vui vẻ rầm rộ nhất là đi dựng nhà cho đồng bào ở trại tạm cư Phú Thọ. Rồi nhập đoàn CPS (Chương Trinh Sinh Hoạt Học Đường) tại trường để sinh hoạt với các anh như Lê Khuê Hiệp, học võ VOVINAM, Thái Cực Đạo, Judo.. Cũng đi biểu tình đã đảo cuộc chỉnh lý của tướng Khánh Râu. Nhập bọn chào Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đến trường khánh thành thư viện mới xây trên lầu 3 dãy đầu. Thấy tướng râu kẽm khoe là cựu học sinh trường Bưởi Chu Văn An nên cũng khoái chí, từ đó cứ mang cái cục CVA tự tôn tự đại le lói trong đầu để hù thiên hạ. Sợ nhất lúc chứng kiến bạn cùng khóa Dương Văn Toàn leo ống máng từ lầu 3 thư viện xuống sân, vì bị thầy Đào Mạnh Đạt rượt đuổi, nên hoảng quá rồi bị gẫy chân. Khóa CVA'71 chúng mình lớn dần qua những biến chuyển của đất nước, tình hình chiến sự sôi động, sự can thiệp ồ ạt của quân đội Mỹ làm thay đổi mọi tầng lớp xã hội, vật giá leo thang, những câu diễu cợt như "Giã từ em, anh đi trung sĩ, Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con. Anh về anh có Mỹ con anh bồng", rồi phong trào hippies ye-ye, mặc quần ống loe, chạy PC, Honda, phong trào nhạc trẻ Beatles, the Ventures, nhạc phản chiến, nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc trẻ của Bố Già Phạm Duy, Phượng Hoàng...Rồi đến biến cố Tết Mậu Thân, các quận ở Saigon bị pháo kích, người thành phố nay mới nếm mùi, để biết thế nào là chiến tranh. Trên truyền hình TV, chứng kiến những cảnh chết chóc và bị ảnh hưởng rất nhiều đến tuổi mới lớn. Lại thêm chương trình học bị rút ngắn một cách thể thảm, sinh ngữ phụ Anh Văn chỉ học xong được nữa cuốn đầu English For Today. Những năm đầu chỉ có các trò lúc ra chơi như chơi u, tạt lo-ong, tạt hình rất ngây thơ, nếu có tiền thì chơi đập tường bạc cắc, đánh bài để đi ăn cà rem vào giờ ra chơi. Nhưng đến năm đệ Ngũ (lớp 8), Tứ (9),Tam(10) là bắt đầu phá quá trời, chọc thầy Giám Thị Michelin Linh, đến cả thầy Tổng Giám Thị Nguyễn Văn Nhì, thầy Phong, thầy Thương, thầy Sâm, thầy Hải, thầy Quỳnh, ngày thứ sáu đến giờ thầy Mai là la rầm “mai nghỉ”, ngay cả đến thầy Long...cứ hùa nhau pha chọc thầy hoặc vài tay chơi tổ trác khắc hình sexy lên bảng đến nỗi thầy Long bỏ dạy cho tới lúc phải xoá xong hình mới dạy lại. Ổi nhiều kỷ niệm khó nhớ hết, vui có buồn có, đến nay những kỷ niệm đó nhớ lại, thấy hay hay của tuổi học sinh. Như một cuốn phim đứt đoạn, lúc nhớ lúc không. Phải công nhân những ngày xưa thân ai đó, đã để lại nhiều ấn tượng hơn là những ngày tháng trên đại học khi mà những giờ phút đó không có được. Chiến tranh càng ngày càng ác liệt đã chi phối lối sống cũng như tư tưởng của tuổi học sinh. Một số lớn tuổi bị gọi đi lính sớm từ năm lớp đệ Tam (lớp 10) , đó là năm phá nhất Sau lên lớp 11 ( đệ Nhị ), đành phải bớt vì phải lo học để thi Tú Tài I, kẻo thi rớt phải đi lính. Nỗi sợ chiến tranh cũng như bị ảnh hưởng các phong trào ngoài xã hội, lớp 11 cũng chuyển mình, nào nhạc trẻ, nào nhạc phản chiến... để rồi chuyển qua chuyện đánh nhau giữa các trường trung học. Hùng hổ nhất có lẽ Chu Văn Ăn và Cao Thắng choảng nhau mấy trận kinh hồn. Có hôm cả bọn cùng rủ nhau chạy xe Honđa lên trường Cao Tháng để thị uy, may mà lúc trường đóng cửa nghỉ trưa nên không bị đánh vì Cao Thắng là dân kỹ thuật có kim kéo sẵn sàng. Sau đó Cao Thẳng đến trả thù thì bị Chú Văn An trong trường túa ra bề hội đồng, kết quả hình như có một học sinh Cáo Thắng bị đâm chết. Sự căm thù đến nỗi khi có việc lên phố Lê Lợi gần Cao Thắng là phải tháo huy hiệu ra kẻo bị Cao Thắng đánh. Các tệ đoan xã hội như nạn bề hội đồng, bắt bò lạc làm các bậc làm cha làm mẹ cuả các nữ sinh lo lắng cho con mình. Cả một thế hệ chịu ảnh hưởng của tình hình đất nước ngổn ngang, vô trật tự. Nhiều bạn trong lớp sau khi rớt Tú Tài I, phải đi lính, rồi chỉ một thời gian sau lại nghe tin được "Tổ Quốc Ghi Ơn”, anh nào anh nấy còn lại "teo bu-gi" lo học để khỏi thi trượt đi lính. Lớp 71 chúng tôi trưởng thành trong khói lửa, một phần nào đã cướp đi cái hồn nhiên của tuổi học sinh "Học sinh là ngoii tổ quốc mong cho mai sau...??".Cũng may có cái u trong đầu của "dân CHU VĂN AN" nên vẫn vừa học vừa phá. Chu Văn An được nổi danh là học khá, sĩ số đậu cao nhưng lại nổi tiếng lè phè, phá phách nhất các trường. Đó là cái cục u Chết Vì Ăn trong đầu. Không như Petrus Ký áo quần chỉnh tề. Có lẽ nhờ đó mà anh em vui nhộn với cái tuổi học sinh của mình nhiều hơn và được các thầy thông cảm. Cũng thể thao thể dục ra phết, trận bóng tròn giữa hai lớp B1 va B2 tại sân Hoa Lư nổi tiếng với Chương Còm, Mẫn trung phong, Lâm thầy bói hoặc Lâm parabol còn biệt danh Lâm bồn lừa ( vì lừa bóng hay chứa không phải..nói lái), lớp P 1 có hậu vệ An tự Cu Voi An ( CVA) to lớn án ngự cuối sân, Tùng lực lưỡng nhưng bị Văn B2 hậu vệ kèm như hình với bóng, nên trận đó B1 chào thua và hẹn phục thù năm tới. Nhớ nhất là những buổi “cúp cua” trốn học ra ăn chè quán Ba Bí Tất trong trường để chọc con gái Ba Bi Tất (nàng học Gia Long), hoặc trốn ra trước trường ăn bánh cuốn, cà rem, gỏi đu đủ , nước dừa xiêm hoặc đi xa chút nữa có nghêu ở đường Nguyễn Tri Phương, chà-cháo quẩy ở đường Minh Mạng hay rủ nhau “cúp cua” đi coi “xi-nê cọp” không trả tiền trong Chợ Lớn. Nhưng phần lớn ra ngồi tụ họp trên bậc tam cấp nhà thờ Ngả Sáu trước trường, chờ các em nữ sinh Bác Aí đi ngang bèn la theo "Á muối a muối, ngộ ái nị túi bụi" hoặc “ Nị panh ngộ hẩy a”. Còn lúc ngồi học trong lớp, lúc thầy chưa tới là ngó xuống trại gia binh bên kia tường từ lầu ba, lâu lâu còn nhìn được các em tắm trong phòng tắm không có nóc bên cạnh tường, bị các em ngó lên thấy và chửi lên là đồ "mất dạy" rồi bị bên đó ném đá qua cửa sổ, sau đó các của sổ bi đóng kín hết nhòm. Tuổi dậy thì, mới lớn lại tò mò thêm màn rủ nhau đi "khai chim", nhất là sau kỳ thi Tú Tài I, những tay chơi khét tiếng trốn lớp đi rồi về tả cảnh lên xóm mới Gò Vấp, ngã ba Chú Ia, hẻm này hẻm nọ, còn khoe thành tích bắt bò lạc làm một số anh em nghe há cả mồm ra, tay thì thọc túi quần..."sotie de l’air". Khoái nghe kể mà không dám đi, phần vì hoc sinh làm gì có tiền mà đi chơi bời , phần thi mới mở mắt chào đời sợ các chị em chê nhỏ xíu, phần sợ bệnh tiêm la mồng gà, hột xoài rồi phai thông nòng đau lắm. Thấy bạn hiền bi bệnh phải đi khệnh khạng hai hàng như Django đấu súng mà thương cho một đời trai đang cần Penecilin. Có những lần cắm trại ở sở thú được vài anh lính đi chơi đêm ghé qua kể chuyện chơi bời làm anh em nóng máu, tối ngủ lều, bắn thằn lằn hoặc vẽ bản đồ trong chăn. Rồi những cuộc cắm trại ở Vũng Tàu trên bãi biển lo ngắm gái, lúc đó làm gì có bikini hoặc "thong", nên cũng chỉ tưởng tượng sau màn vải hai mảnh mà thôi. Sao cuộc đời hoc sinh trung hoc hồi đó ngây thơ quá. Nên có lẽ nhờ đó mà còn có một số bạn còn để trinh cho vợ sau này. Sau trung học đệ nhất cấp thì các lớp P2, P2 và Al ,2,3 lên đệ Tam (lớp 10 đệ nhị cấp) là phải chia lớp theo các ban khác. Lớp PI & P2 gồm đa số các bạn thích ban Toán nên những khuôn mặt cũ trở thành B1 & B2 với sinh ngữ chính là Pháp Văn ( theo giọng Nam kỳ, Pê phở hay Bê bò cũng là Bê đê ca, còn A1,2,3 nhập chung thành B3 ,B4 còn B5 là từ các trường khác bên ngoài nhập chung với sinh ngữ chính là Anh Văn. Một số muốn học ban C phải chuyển qua Petrus Ký vì Chu Văn Ăn không có ban C, một số muốn theo ban A phai theo sinh ngữ Anh lớp A. Năm lớp 10, 11, 12 co thêm nhiều khuôn mặt mới được tuyển vô từ cac trường khác cho đủ túc số 60, nên thêm nên có nhiều bằng chơi với nhau như Băng Tam Ca ba con heo nái, băng Tứ Qúi, bằng Ngủ Quỉ B1, lại có băng được anh em thân ái đặt cho là "băng ...Vệ Sinh" hoac "băng Bạch Tuyết" hoac "băng treo cờ Nhật", có những tay chơi của lớp khác như Thiều Văn Định (B4), Đặng Cường Anh (B3) đều vang danh khắp trường anh em khiếp vía. Phải nói trong lớp anh em rất vui vẻ với nhau mặc dầu lâu lâu cũng có những màn đánh đấm sôi nổi sau khi chọc phá nhau hoặc lén coi Thông Tin Bạ để biết tên bố mẹ rồi đem tên ra làm trò đùa. Vui nhất là lúc bầu cử trong lớp, tên nào phá nhất thì được bầu làm trưởng ban trật tự hoặc trưởng lớp, làm thầy hướng dẫn cũng đành chiu thua lũ học sinh phá phách. Vậy mà anh chàng lên chức lại làm được việc và bớt phá phách. Nhiều vụ choảng nhau tay đôi không kém phần hấp dẫn rồi cũng được anh em can gián. Bên cạnh đó là những mối tình của tuổi học sinh mới lớn mộng mơ “em tan trường về, anh theo Ngỏ về”, vì là trường toàn đực rựa thiếu bóng đàn bà (ngay các cô giáo cũng hiếm) , nên anh em hay xung phong những buổi đi bán báo Xuân bên Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Bồ Đề hoặc xuống các trường miền lục tỉnh. Từ đó là những chuyện tình vui vẻ, đa số CVA thích kết với Trưng Vương vì nếu leng béng sang Gia Long là bị Petrus Ký kên. Mấy anh CVA sang các trường nữ để bán báo thường bi các em bên đó chọc quá, đứa thì đỏ mặt tía tai đứa thì quê sệ, chào thua các cô Bắc Kỳ nho nhỏ. Khi các cô mà có số đông thì rất quỉ quái. Ngược lại các em gái sang bên CVA bán báo cũng bi chọc quá trời, có những em bán được báo, bị xin chử kỷ thì phải đứng sát gần bàn và mải mê ký nên bị cột vạt áo dài trước vào chân ghế mà không biết, nên khi ký xong, trở ra thi hỡi ơi vạt áo dài trước bị giữ lại nên hàng cúc bấm tha hồ tuột ra, các anh được dip tha hồ ngắm "cọc sê" trắng mút hoặc hoặc nếu "sans soutien", thì chả thấy gì đâu, chỉ thấy "quả cau nho nhỏ, cái quả xinh xinh, nay anh học gần..." đâu có thấy Bà Triệu Ấu (dài ba thước) hay “ma vú dài” đâu cả , may cac cô không bị rách áo dài, sau đó cả bàn đó bi phạt kỷ luật cấm túc. Nếu có cô nào hồi xưa sang CVA bán báo nào bi nạn này mà còn ấm ức chuyện đó thì xin xí xóa cho mấy tên "hắc ám" CVA đó nhé. Còn đa số anh em cũng ga lăng ra phát nên chỉ xin các cô tên và chữ ký thôi. Lúc các em về, ngôi mơ mộng rồi ôm tờ báo với chữ ký nghệch ngoạc của nàng mà chẳng biết tên thực của nàng là gì vì các cô chơi khăm, đoán mãi không biết tên. Lúc đó lam gi có điện thoại mà xin. Vài bữa sau “cúp cua” sang kiếm em tại trường em thi bóng em chẳng thấy đâu, gồng mình hỏi đám con gái đi bán báo Xuân thì được chỉ cô bán sinh tố trước trường. Quê một cục bèn dzooc về mà ôm hận tương tư. Đến TẾT lai có màn văn nghệ tất niên, cũng đón tiệc với thèo-lèo cứt chuột, mứt, bánh, hạt dưa và có màn văn nghệ hát hỏng, cũng vui ra phết, cũng ôm nhau nhảy "twist giựt kinh phong" theo tiếng nhạc thời đại "Anh là lính đã tình..", mang tiếng nhảy đầm, nhưng làm gi có đầm mà nhảy cò cò. Nhờ bé Hậu nhà có ban nhạc, năm lớp 12 mới có ban nhạc sống để nhảy đầm, Hậu đánh trống va tập đợt tại nhà Phạm văn Thịnh để chỉ anh em nhảy cha cha má bản "Một đêm trăng sang lung linh...". Huy râu kẽm kiếm đâu được mấy em sexy cùng tuổi, hình như cac em là gánh nước phông tên trong xóm, đến làm "ca-ve" nhảy dùm. Chả tên nào dám lợi dụng "sờ tí" vì nhát như thỏ sợ rách quần. Mấy em phai kéo tay mấy anh lên hông cho đúng điệu. Đúng là con nit tập tành. Lâu lâu những giờ cúp cua” rủ nhau chạy xe qua Trưng Vương, Gia Long, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo ....trồng “cây si” để nhìn các em cũng đỡ ghiền. Nếu đi qua Trưng Vương ngắm các em rồi sẵn tiện chui qua lổ chó (lỗ hổng ở hàng rào) vào sở thú dòm thiên hạ làm trò khỉ lấy làm thích thú, rồi chờ lúc các “em tan trường về” bèn chạy theo dưới chờ khi bắt kip chả dám ngó mặt nàng, đúng là nhát gái . Còn những tay gạo ở lại lớp nhiều khi phải ngáp ruồi cho những giờ học thứ 5 của bữa trưa nóng nực khi giáo sư chưa tới, bày thêm trò choi tuột quần nhau “ khám chim”, xem thằng đó đã trổ mã chưa (tức là đã dậy thì đủ lông đủ cánh chưa) . Đến mùa hè cuối cùng năm 1971, ra tường và chờ đợi kết quả kỳ thi Tú Tài 2 là anh em thấy buồn nhiều, đứa đậu đứa rớt, rồi mỗi thằng đi một ngả. Đứa thì ghi danh Khoa Học, Luật Khoa, Văn Khoa, Minh Đức, Vạn Hạnh, đứa thì lo học thi vào các phân khoa Phú Thọ, Sư Phạm, đứa thì lo nộp đơn đi du học. Một số thì phải xếp bút nghiên vào Thủ Đức ... Những ngày thanh thản sau kỳ thi Tú tài 2 là những ngày long bong với các buổi cà phê ban đêm, ngồi bên ly cà-phê nhỏ giọt để đấu hót hoặc ngồi yên lắng nghe nhạc. Lúc này đầu óc thanh thơi nên cà nhõng chay Honda đi vòng vòng. Vài ba đứa đi du học sớm làm anh em nôn nao, rồi những bữa tiệc tiễn đưa những thằng may mắn đi trước. Những buổi tụ tập nhau trước nha Du Học gần bệnh viện Grall, Trung Tâm văn Hoá Pháp để chờ danh sách. Có những chuyện cười lúc nộp đơn du học, như cái tên cha sinh mẹ đẻ là Vương Đình Điềm hẳn hoi thế mà lúc nhận thư trả lời việc ghi danh của Đại Học bên Mỹ họ gửi là Diêm Vương. Sợ quá, họ cho mình xuống âm phủ làm vua. Có người bạn tên Tô Đình Cư, Tô Thị Vũ, Tô Đình Các bi đổi tên mới thật tượng hình Cu To, Vú To, Cạc To....làm anh em một mẻ cười thật vui. Với vốn liếng Anh Văn nửa cuốn English For Today của chương trình học hạn chế, có anh bạn ra phỏng vấn tòa Đại sứ Mỹ được hỏi tên: "What is your name?" Trả lời : '”Ngô Thanh Kiều". Họ gắt hỏi lại: "What is your name?" lại trả: "Ngô Thanh Kiều". Chàng bèn bị từ chối có lẽ ông ta nghe như là "No, thank you", một trường hợp khác tên Ngô Đồng khá hơn chút trả lời theo tên kieu Mỹ "Đồng Ngô" cũng bị cho "de" vì nghe là "Don't Know". Các lớp CVA 12 năm 1971 có gần nửa lớp là di du học vì điều kiện dễ dãi nhất là đi tự túc một số đi Bỉ, Đức, Ý, Canada, Mỹ , Nhật Bản. Đi đông nhất có lẽ là đi Mỹ vào ngày Noel 25 tháng 12 năm 1971, ngày đó hãng máy bay Pan Am dư chổ vì các lính Mỹ về nhà ăn Christmas trước rồi, và sau đó năm 1972 mùa hè đỏ lửa, lại vụ đôn quân, chấm dứt hoãn dịch, anh em “teo chim” bi cha mẹ đẩy đi du học sợ con đi lính chế trận nên những tên du học sinh thời đó toán thuộc tiểu đoàn trốn lính. Sang đây sau luc vào công dân Mỹ , định đổi tên Mỹ cho oai chứ "King of the Hell" nghe ghê quá rồi thôi vì thấy thằng bạn họ Vũ Bê vốn dân trường Tây có tên tục là Rô-be nên anh chàng đổi tên là Robert Vu. Bị thiên hạ gọi là Bóp Vú. Đau nhất là anh bạn người Huế dòng đối nhà vua họ Nguyễn Phúc hay Nguyễn Phước gì đó , lại tên Dự, thế là anh em cứ réo goi tên “Phuc Du” của hắn mà cười. Hắn tức lắm, quyết định đổi tên họ khac khỏi bi chọc, bèn lấy tên Dumas cho có về Tây một chút, lại bị chọc nữa, đúng là "tránh vỏ dưa gap vỏ dừa". Thông cảm cho ai ai có tên Dung, Dũng, Phúc, Phước, Phát, Phác, Cân hoặc họ Đổ trên đất Mỹ. Nói đến những gì khó quên của năm học sinh thì có lẽ những biệt hiệu (nickname ) đặt cho nhau là lý thú nhất. Nó gọi lên cái tính chọc phá đùa dai hoặc ác ý chơi nhau mà không bị sùng sộ hoặc phải giải quyết bằng những cứ đánh đấm. Có lẽ lớp nào cũng có nhiều biệt hiệu rất đặc biệt cho những tên trong lớp mà người lớp ngoài khó biết được, ngoại trừ vài nhân vật nổi tiếng như Đổ Văn Công (B3) CVA72 chủ tịch ban đại diện toàn trường 1970-1971 được êm ái đặt tên là Công Ngủ, Phạm Mạnh Hà (B4) là Hà Hùng biện vì hắn ta được giải cuộc thi hùng biện Anh Văn của Hội Việt Mỹ tổ chức. Riêng lớp CVA 71 B1 cũng có những giai thoại và tên biệt hiệu quái đản vui vui, chẳng hạn lúc lớp đệ Lục, học Hán Văn thầy Quế, Cung Quang Ngọc đứng lên hỏi Nhũ Hoa là gì, cả lớp cười ầm lên và từ đó hắn ta đuợc biệt danh là Nhũ Hoa, trông hắn có giọng con gái lai ẻo lả nên đành chịu thôi, tên Vũ Xuân Nha không hiểu sao mắt cứ lờ đờ như ngủ gật nên thầy Pháp Văn Thương đặt cho là đọc-mơ chê-chê qua bài giảng về loại muỗi cheche của Phi Châu chích vào ai thi nguoii ấy ngủ gà ngữ gặt. Đến Nguyễn Quang Trung, giờ Việt vẫn học chuyện Kiều, hỏi thầy Tú Bà là gì nên được gọi là Tú Bà hoặc Trung Cu (để phản biệt với Tiến Trung). Trịnh Khánh An vi to con nên biệt danh CVA (Cu Voi An) và Nguyễn Thành Dũng vi hồi đó tóc hắn còn nhiều và nổi bật trên khuôn mắt là đôi lông mày rậm rạp đen nhr hai con sâu róm nên biệt danh Dũng Sâu Róm gắn liền với hắn ta từ đó đến bây giờ, nói đến Sâu Róm là ai cũng biết. Trần Ngọc Thắng với tướng gồ ghè và có có tóc mai dài xuống cằm nên biệt danh là Tôn Ngộ Không, sau đó thời điểm đó có tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến nổi danh nên cu cậu được đôi thành Trâu Điên, bên cạnh đó có Thái Hữu Trí mập ú được gọi là Trư Bát Giái., Còn Đào Đình Đắc được anh em đặt cho là Đắc Cựt. Hoàng Văn Cường có cái thẹo xanh trên trán gọi là Cường thẹo Xanh. Vũ Ngọc Thăng, dáng lầm lì cao lớn lại đôi mắt xập xuống nên có biệt hiệu là Hiệp Sĩ Mù . Nguyễn Văn Tư được đặt thêm tên là Tư Lành (vì lúc đó có chuyện tranh Tư Lành Vào Dân Vệ) hoặc Bốn Lành (vì Tư là Bốn) theo nghĩa nói lái. Trịnh Van Thình được gọi là Ma Lìn, Nguyễn Xuân Huy là Huy Việt Cộng, Chu Đức Khánh là Khánh Đểu. Thầy Thiên Phụng trong bài dạy nhạc của thầy có nói phách âm nhạc có một phách nhỏ cong gọi là phách thọt nên anh em đặt tên cho Đào Ngọc Phách là Phách thọt, Huỳnh Văn Hoàng là Sáu Lổ , còn Nguyễn Thành Hưng vì lé nên gọi là Hưng Lé, L,ê Hoàng Tâm vì đi nạng nên bi gọi là Tâm què. Còn có Hậu con, Văn Đầu Bò vi đầu hắn to lắm , Nguyễn Van Trì tóc bạc sớm gọi là Trì Đầu Bạc, Vũ Duy Thái là Thái Dúi, Lớp ở đầu lầu hai trên phòng thí nghiệm là B4 (biệt danh lớp Bê Bối thay vì Bê bốn) thường bị B1 trên lầu nhổ nước miếng xuống trúng đầu mà không thể biết được thủ phạm để kêu trưởng lớp Thiều Văn Định lên đánh cho một trận, có Hùng Xùi ( Vũ Văn Hùng bị mặt mụn nhiều) để phân biệt với Hùng Què (Võ Việt Hùng bi gãy cẳng bó bột), Hùng Bơ, Lê Đức Vượng được đặt tên là Lê Đít Vịt vi miệng hắn nói nhiều lắm, (hắn ta chỉ khoái lấy tên của hắn nói ngược lại là Vương Đức Lệ một nhà thơ trữ tình nổi tiếng thời bấy gờ.... Lớp B3 có Tiến Đen phân biệt với Tiến Trắng....Chuyện đặt tên tục dành cho nhau không chi đứng đó, các giáo sư cũng bị chiếu cố như thầy Phong dậy toán tình rất nóng là Phong Lửa để phân biệt với thầy Phong hiền hơn là Phong Gió hay Phong Nhỉ (Phong là Gió, Nhỉ là tai, nói lại lái thì tượng hình lắm), thầy Phạm Văn Nhì mồ hôi nách hơi nhiều luôn ướt nách gọi là thầy Hôi Nách, thầy Thương Pháp Văn là Ê-lê-măng-tè nhái theo giọng thầy đọc quyển Francais elementaire, thầy Giám thị bụng bự được gọi là Michelin (vì giống như mascot quảng cáo bánh xe Michelin của Pháp), thầy Nguyễn Sâm dạy Vật Lý là Sâm Bổ Lượng, thầy Đạt sau vụ Dương Văn Toàn được gọi là Đạt điên, Thầy Trần Mộng Hải là Trần Mộng Tinh...Kỷ niệm nhớ đến các thầy khác như: thầy Vũ Hoàng Chương với bộ đồ vét màu nâu và chiếc mũ vào dạy Việt Văn mà nghe thầy ngâm thơ như thầy với cõi thiên thai, thầy Toán Đào Văn Dương, Đinh Đức Mậu, học nhạc với thầy Thiên Phụng, anh nào mà vẽ đẹp tô màu loe loét nhiều vào tập nhạc là được điểm cao, chả cần hát có đúng nhịp hay không, thầy Quỳnh vẽ Vạn Vật trên bảng hết sẩy với những lời ví von nhị đực nhị cái làm giờ Vạn Vật vui nhộn hẳn lên , thầy Bạch Văn Ngà dạy Toán chuyên môn chửi đứa nào ca gan hỏi thầy trong giờ thì thầy la "các anh vừa ngu, vừa dốt, vừa lười lại vừa không chịu học, hỏi gì, vớ vẩn, ngồi xuống!", nếu thua "em" với thầy thì bị quát "em, em cái mà bố anh, tôi dạy cả bố anh chứ có phải chỉ có anh đâu" thế" là phải xưng con với thầy cũng như với thầy Nhì hôi nách. Thầy Nguyễn Long đẹp trai dạy Vạn Vật đệ Ngũ về địa chất đất đá khô khan mà vẫn được cả lớp chú ý , thầy Bùi Thế Tập dạy Việt văn, thầy Cung Nhật Tận dạy công dân, thầy Bùi Đình Tấn dạy Sử Điạ. Thầy Hoàng Minh Hùng dạy Việt Văn giảng chuyện Kiểu lâu lâu đố học simh: Trong Kiều có cảnh nào tả Kiều mắc bệnh đái đường?. Chả có anh nào biết, thầy bên ngâm nga: "Xè xè nắm đất bên đường, Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh" và xin diễn nôm là hồi xưa làm gì có W.C. để trút bầu tâm sự lỏng, khi muốn quá, nàng đành làm đại giữa đồng với tiếng nước chảy ra của nàng kêu xè xè với lại với nước nóng hổi vào tiết thanh mình nên đám cỏ non nên một số cũ ng bị đổi màu. Cả lớp thích chí cười vang. Bữa khác thầy Nguyen Hữu Mai dạy Kiều lại đố: câu Kiều nào tả cảnh Kim Trong ngôi trút bầu tâm sự đặc để hưởng cái khoái thứ tư của thiên hạ (tứ khoái: ăn, ngủ , đ..,., i.). Sâu Róm giơ tay xin đọc vanh vách: " Khi tựa gối khi cúi đầu, Khi vò chín khúc khi cau đôi mày(chả là Kim Trong bị táo bón nặng nên khi nghe đàn của Thúy Kiều dep phải vào nhà xí VN hồi xưa, ngồi chồm hổm nên cái má phải tựa sát vào đầu gối, lâu lâu cúi đầu xuống xem đã ra chưa và nhiều lúc đau bụng quá phải xoa bụng chín khúc ruột và nhăn mặt, cong cả đôi lông mày sâu róm. Thầy nghe xong gật gù cho 20 điểm về chổ. Lại thầy Bùi Thế Tập giảng về Nguyễn Công Trứ với câu: "Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc, Tri nhàn tiện nhàn hà thời nhàn" Gọi anh chàng người gốc Huế tên Tôn Lò(cấm nói lái), bà con với thầy Tổn Thất Lương mà anh em đặt cho là giáo sự Tôn Bất Lương, lên dịch sang tiếng Nôm cho cả lớp nghe, giọng nặng Huế của chàng: "Biết dụ thấy dụ thích dụ tức là dụ,…" sau đó cả lớp nhái theo vì được bữa chửi tục mà không bị thấy la. Năm đệ Tứ niên khoá 1967 -1968 có thầy Nguyễn Hữu Mai dạy Việt Văn, Nguyễn Trọng Văn dạy Công Dân Giáo Due (chuyên môn vào lớp chửi đế quốc Mỹ) , Cao Quang Cận dạy Pháp Văn vẻ hình cái toilet có đồng hồ chỉ 10 giờ, anh em thắc mắc hỏi, thầy nói 10 giờ tiếng Pháp là “dix heur”, nếu vào nhà xí thì"đít dơ" chứ gì hỏi vớ vẩn, Phan Minh Hoàng dạy Sử Địa, Nguyễn Đình Nhàn dạy Toán, Hà Tường Tiệp dạy Lý Hoá, Nguyễn Văn Định dạy Vạn Vật, Thiện Phụng về âm nhạc, Trương Bá Phẩm dạy Thể Dục, thầy giám học là Nguyễn Huy Dương, thầy Hiệu Trưởng là Nguyễn Xuân Quế....và rất nhiều thầy kac chả còn nhớ được ai sau gần 50 năm. Các trường bạn cũng có biệt danh như Trưng Vương là Trứng Vịt, Gia Long là Gia Lợn hoặc Ghẻ Lở, Vỏ Trường Tóan là Vô Trứng Thúi hoặc Vô Trật Tự, Petrus Ký là Pê lắc Khí,Mạc Đĩnh Chi là Móc Đ..Chó.. Gần năm mươi năm rồi những kỷ niệm như là cuốn phim ngắt quãng, nó quay lại vào lúc có bạn bè nói chuyện và đấu hót. Có những câu chuyện mà chính mình quên bẵng hay không biết nay nghe bạn bè kể lại rồi mình mới hình dung để tở về dĩ vãng"Mua vui cũng được một vài trống canh", cũng cảm thấy quí hoá cho cuộc đời chúng mình lỡ sinh vào buổi đương thời, lớn lên trong buổi giao thời không trọn vẹn, rồi biến cố đổi đời lớn lao đã cuốn ta vào một con sóng lớn mà ta phải ngụp lặn thật lâu . Naycon sóng đã lắng xuống sau gần nửa thế kỷ . Cuộc Hội Ngộ này như là một dịp tụi mình ngồi lại với nhau, để tâm hồn bình thản hầu có thể níu kéo được một chút gì thật vui mà kỷ niệm vẫn còn vật vờ trong tiềm thức khó quên. Sống cho nhau những giờ phút hiện tại, rồi mai đây ai lại về nhà nầy, với vợ với con, với công việc hằng ngày"mỗi ngày như mỗi ngày tôi trả lại đời tôi". Nếu thấy vui thi xáp lại với nhau, chỉ cần lúc nào anh em thấy cần hú một một tiếng, có vài người bạn gặp nhau là cũng vui rồi. Vài mươi năm nữa chả biết ai còn ai mất cuộc đời theo thời gian qua đi, còn lại chị là kỷ niệm. Tuổi chúng mình là tuổi giao thời, nửa nạc nửa mỡ, không trọn vẹn được cái gì cả. Dặng co giửa hai nền văn hoá Đông và Tây, để hội nhập vào cuộc sống tại xứ người nhưng vẫn nhớ lại cuộc sống "thời trước". Ngay cả viec giáo dục con cái, giao thiệp với dân bản xứ cũng bị ảnh hưởng gua hai nền văn hóa khác nhau . Có lẽ tui mình sinh lầm thế kỷ chăng? Thôi thì cố gắng vậy, sống với hiện tại, nghĩ đến tương lại và lâu lâu nhìn về dĩ vảng để quân bình cuộc sống tuổi xế chiều theo câu thơ trên của cũ Nguyễn Công Trứ : biết dụ tức là dụ, biết nhàn tức là nhàn. Viết lại nhân ngày Hội Ngộ CVA Toàn Cậu 2017 Vương Đình Diềm - CVA71
|
Viết Về CVAThân mời toàn thể quí vị Giáo Sư, học sinh Bưởi-CVA tham gia vào diễn đàn CVA ArchivesCategories |